Thứ Năm, 6 tháng 8, 2009

Gia dinh be nho cua Thanhnhaho


Chao cac ban!
Xin mời các ban ghé thăm gia đình nhỏ bé của Thanhnhaho một chút nhé.
Thanhnhaho lập gia đình khi 31 tuổi và dười đây là một số hình ảnh của lễ cuới


Vợ tôi đấy (Hình trên)

Đi đón dâu

Tại dinh của nhà Nàng cùng hai bên thông gia

Cùng bạn của Nàng trong ngày vu quy
Sau hơn một năm chung sống, chàng và nàng đã sinh ra một cậu nhóc:


Bé khi tròn tháng tuổi
Và tôi sẽ kể tiếp cho các bạn về gia đình của mình trong thời gian tới nhé

Hàm Rồng điểm nhấn của du lịch xứ Thanh



Ham Rong diem nhan cua du lich xu Thanh
Hàm Rồng, mảnh đất nổi tiếng của xứ Thanh với nhiều di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh. 42 năm trôi qua, kể từ ngày Hàm Rồng chiến thắng (ngày 3 và 4/4/1965), giờ đây đứng trên mảnh đất anh hùng này, du khách ít ai nghĩ rằng đây là tọa độ lửa khốc liệt thời chiến tranh chống giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc.

Hàm Rồng hôm nay đang từng bước chuyển mình. Nhiều công trình, trường học, nhà cao tầng mọc lên san sát ngay trên những nơi xưa kia là bãi bom. Núi đồi xưa nham nhở đạn bom nay cây xanh đã mọc lên tươi tốt. Hàm Rồng đã và đang được xây dựng thành khu lâm viên văn hóa du lịch độc đáo của tỉnh Thanh mang tên: Khu du lịch văn hóa (KDLVH) Hàm Rồng. Theo dự án, nơi đây sẽ là điểm dừng chân tiện lợi cho du khách tuyến Bắc- Nam cả bằng đường bộ (Quốc lộ 1A), đường sắt, đường thủy (sông Mã). KDLVH Hàm Rồng được thiết kế quy mô gồm nhiều hạng mục công trình lớn với các khu chức năng: khu trung tâm, khu du lịch khảo cổ, khu vui chơi giải trí hồ Kim Quy và các công trình quanh hồ, khu cắm trại và làng văn hóa du lịch các dân tộc tỉnh Thanh. Hiện tại Công ty cổ phần du lịch Kim Quy đã đầu tư xây dựng KDLVH sinh thái hồ Kim Quy, trong đó hồ Kim Quy và các công trình quanh hồ là trung tâm vui chơi giải trí của KDLVH Hàm Rồng. Các công trình được xây dựng quanh hồ Kim Quy rộng 27 ha mặt nước gắn liền với quang cảnh tự nhiên của làng cổ Đông Sơn, núi Cánh Tiên, núi Ngọc, động Tiên Sơn, hang Mắt Rồng, đền thờ Trần Khát Chân, Lê Uy, chùa Tăng Phúc và các di tích lịch sử văn hóa của Hàm Rồng- Nam Ngạn.

Dạo quanh khu du lịch sinh thái Hàm Rồng, như lạc vào một không gian kỳ thú, Hồ Kim Quy nước trong xanh bốn bề in bóng núi Rồng. Những chiếc thuyền thiên nga bồng bềnh, nhẹ trôi. Làng cổ Đông Sơn lấp lánh trống đồng tỏa sáng tinh thần Việt. Động Tiên Sơn với chính cung, thủy cung, đầy ắp cả kho huyền thoại in dấu trên từng phiến đá, nhũ đá, măng đá lấp lánh hoa cương… Theo ông Lê Văn Luyện, Chủ tịch HĐQT kiêm giám đốc CTCPDL Kim Quy thì sau 3 năm thực hiện dự án, KDLVH Hàm Rồng đã xây dựng và đưa vào sử dụng một số cơ sở vui chơi giải trí phục vụ du khách như: hồ Kim Quy hạ, động Tiên Sơn, đảo hồ, nhà thuyền, khách sạn Newday và các khu dịch vụ du lịch tổng hợp. Hiện tại, công ty đang tiếp tục đầu tư xây dựng để từng bước hình thành khu trung tâm vui chơi giải trí gắn với tham quan các di tích lịch sử văn hóa Hàm Rồng, với tổng số vốn đầu tư lên tới 65 tỷ đồng, trong đó vốn tự có 35 tỷ đồng, vốn Nhà nước 30 tỷ đồng. Tuy chưa hoàn thiện, nhưng KDLVH Hàm Rồng đã và đang thu hút du khách gần xa tham quan. Hiện tại, ngoài hai nhà đầu tư đã đầu tư xây dựng đảo hồ Kim Quy và nhà hàng Newday, cũng đã có 9 nhà đầu tư thứ cấp khác tiếp nhận dự án, xây dựng các công trình quanh hồ như nhà dưỡng sinh cộng đồng, bể bơi, công viên nước, nhà nghỉ nhà sàn, nhà nghỉ biệt thự, hồ nuôi cá sấu và sân thể dục thể thao. Dự kiến các công trình này sẽ tiến hành xây dựng vào giữa năm 2007.

Tuy nhiên, hiện nay dự án đang gặp không ít khó khăn, nhất là việc đầu tư xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó, về giao thông, hiện vẫn còn 3/6 tuyến đường chính chưa được xây dựng, hệ thống cấp thoát nước và điện chưa hoàn chỉnh và 16 hộ dân thuộc khu quy hoạch chưa có đất tái định cư. Đặc biệt, một số công trình trọng điểm về văn hóa như đền Phủ Mẫu bị sập cách đây 1 năm chưa có phương án khôi phục, tôn tạo; dự án cải tạo động Tiên Sơn giai đoạn 2 chưa được phê duyệt.

Để KDLVH Hàm Rồng nhanh chóng trở thành một điểm nhấn quan trọng của du lịch xứ Thanh, còn phải làm nhiều việc, trong đó cần tập trung đầu tư đồng bộ, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt. Song song với đầu tư cần khẩn trương giải quyết dứt điểm các tồn tại về giải phóng mặt bằng, nâng cao khả năng thu hút đầu tư đối với các đối tác cả trong và ngoài nước.

Lễ hội chùa Vồm


Từ sáng sớm, đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương đã về chùa Vồm dâng hương và tham gia lễ hội.
(THO) – Cứ đến ngày 12-2 âm lịch hằng năm, Lễ hội chùa Vồm (xã Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa), lại được tổ chức long trọng, trang nghiêm, thu hút nhiều du khách thập phương đến tham gia lễ hội, vãn cảnh chùa, chiêm ngưỡng phong cảnh Bàn A Sơn và thắp hương cầu lộc, cầu tài …
Năm nay, Lễ hội chùa Vồm được tổ chức quy mô khá hoành tráng, gắn với kỷ niệm 20 năm ngày chùa Vồm, núi Bàn A Sơn được công nhận là di tích danh thắng cấp tỉnh.
Dưới đây là một số hình ảnh được ghi nhận trong ngày khai mạc Lễ hội chùa Vồm:

Lễ cầu phúc được diễn ra trang nghiêm, thành kính…
… Và những con chim bồ câu được các tăng ni, phật tử thả trong lễ phóng sinh để cầu mong cho xã hội an lành, hạnh phúc.
Du khách thưởng ngoạn phong cảnh núi Bàn A Sơn.
Chơi bài điếm, chọi gà… - những trò chơi mới được khôi phục trong lễ hội.

Văn Thanh

Hang động Trường Lâm – hoang sơ, kỳ vĩ



(THO) - Có thể là một trong những hang động đẹp vào bậc nhất tỉnh Thanh, nhưng động Trường Lâm (Tĩnh Gia) vẫn còn dáng vẻ hoang sơ, thiên tạo nhiều hơn vì chưa có sự tác động của bàn tay con người. Đây là một quần thể hang động rộng lớn, với mười động lớn nhỏ, mỗi hang động chứa đựng bên trong là cảnh sắc cõi tiên hiện hữu nơi trần thế - những điều kỳ thú mà thiên nhiên ban tặng, và ở đó thiên nhiên rất đỗi gần gũi trong cuộc sống con người.
Nghe nói nhiều về động Trường Lâm (Tĩnh Gia), nhưng mãi đến cuối tháng 6 vừa rồi, chúng tôi mới có dịp được “chiêm ngưỡng” quần thể hang động này. Đi với chúng tôi hôm đó có các anh Văn Trà, cán bộ phòng văn hóa huyện Tĩnh Gia; anh Vương, anh Tài, ủy ban xã Trường Lâm và anh Thành là “thổ dân” địa phương. Nếu tính từ thành phố Thanh Hóa thì chúng ta đi dọc theo Quốc lộ 1A về hướng nam hơn 50km, sau đó rẽ tay phải không đầy 1km nữa là đến địa phận 2 xã Mai Lâm và Trường Lâm (Tĩnh Gia) – nơi có quần thể hang động Trường Lâm kỳ thú. Nghe các anh ở ủy ban xã Trường Lâm nói, từ đây vào đến chân động phải vượt qua 5km đường đồi núi dốc, gập ghềnh. Để có thể thăm thú hết các động ở đây cũng phải mất 2 ngày 1 đêm. Vì thế, chúng tôi sẽ phải xuất phát từ rất sớm và mang theo đầy đủ những đồ dùng cần thiết như: đèn măng-xông, đèn pin, lương thực, nước uống... mới có thể “cầm cự” trong suốt cuộc hành trình.
Từ UBND xã Trường Lâm, đi qua cái đập nước đầu tiên, đoàn xe máy chúng tôi lần lượt nối đuôi nhau vòng lên những con dốc quanh sườn núi. Xe đi luôn ở số 1 mới có thể bám và vượt qua được con đường dốc, gồ ghề, đất đá ngổn ngang. Giữa nắng trời tháng 6, ai nấy mồ hôi thấm đẫm lưng áo, cả đoàn giống như những vận động viên trình diễn xiếc mô tô bay trên sân khấu. Anh Thành dẫn đầu đoàn nói với lại phía sau:
- Qua được con dốc này, chúng ta sẽ đến được chân động. Nếu xe dừng lại đây thì chỉ còn nước đi bộ hơn 1 cây số nữa kia!
- Thôi, đi tiếp! đi tiếp! Cả đoàn đồng thanh.
Do độ cao và chiều dài của con dốc, nên hễ đi được một chặng là máy lại ì ra, cảm tưởng như các bộ phận của xe đang kêu lên sòng sọc. Với kinh nghiệm gần chục năm dẫn đường của anh Thành thì chúng tôi thực sự yên tâm. 30 phút sau, chúng tôi đã leo lên đến đỉnh đồi, cả đoàn nghỉ chân mươi phút ở cái lán dựng tạm của người dân địa phương, uống vài hớp nước, hít lấy khí trời và hướng tầm mắt ra xung quanh bạt ngàn là màu xanh của keo – một loài cây trồng phù hợp với địa hình đồi núi dốc, cảm giác mệt nhọc đã xua tan lúc nào. Đến đây, chúng tôi đi bộ vài chục bước chân thì tới động Cô Tiên.
- Các hang động ở đây có từ bao giờ hả anh? Vừa đi, tôi vừa tranh thủ hỏi anh Thành.
Anh trả lời:
- Theo anh được biết thì động Trường Lâm hình thành từ xa xưa, nhưng mãi đến đầu những năm 1990 mới được phát hiện. Động Cô Tiên nằm trong quần thể hang động Trường Lâm được phát hiện lần đầu trong khi người dân ở đây đi đốn củi, chẳng may họ đánh rơi con dao xuống một lùm cây, bới ra tìm thì phát hiện có một cửa hang, đi sâu vào bên trong càng thấy phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, đẹp tựa cõi tiên. Từ đó, nhân dân trong vùng và cả những nơi khác biết đến, thường xuyên lui tới tham quan, chiêm ngưỡng.
Đặt chân đến động Cô Tiên, ngay bên trái cửa hang, người ta đặt ở đó bức tượng Phật bà quan âm thể hiện cho đấng cứu nhân độ thế. Anh Thành nói vui: “Trước hết nhà báo phải thành tâm cầu khấn mấy lời trước khi vào bên trong động”. Nói rồi anh Thành và tất cả mọi người trong đoàn đứng nghiêm chỉnh chắp tay, miệng lẩm nhẩm.
Anh Thành thắp sáng chiếc đèn măng - xông, đi trước dẫn đường, vừa bước xuống cửa hang, một làn không khí mát rượi tỏa ra phân định rõ ranh giới giữa chốn trần và cõi tiên. Đi sâu vào bên trong độ 10m là hình ảnh những con rồng chầu quanh một bàn thờ mang đầy sự tích nhà Phật hiện ra với những nhà sư khoác áo cà sa đang cúi đầu, chắp tay cung kính.
Rời cõi Phật, đến với cõi Tiên là hình ảnh voi chầu trên vách đá, hổ phục dưới chân động. Bên trên là một con cá khổng lồ đang vẫy vùng giữa biển khơi mà người dân miền duyên hải quen gọi là cá ngư ông, bên dưới là dòng suối bạc lấp lánh bởi nhũ đá ngũ sắc. Nhìn sang bên trái có chiếc ngai vàng, bên cạnh là kho tàng cổ tích. Mải ngước nhìn cảnh quan phía trên động, nghe có tiếng lạo xạo dưới chân, tôi nhìn xuống có rất nhiều những viên hình tròn bằng đầu ngón tay út. Tôi cầm trên tay mấy viên rồi hỏi anh Thành:
- Những viên tròn tròn như thế này em chưa hề thấy bao giờ?
Anh Thành cầm chiếc đèn măng-xông sát lại phía tôi, giải thích:
- À! Người dân đồn rằng đó là thuốc tiên! Nói rồi anh cầm một viên đưa lên miệng cắn vỡ đôi, bên trong có lớp nhân để chứng minh đó giống như viên thuốc thật. Càng vào sâu bên trong, những viên thuốc tiên to dần, viên to nhất bằng đầu ngón tay cái, rải rác dưới chân động. Chúng tôi đi tiếp vào trong cung vàng có dòng suối vàng chảy quanh, giữa dòng nổi lên vị thần kim quy mà tượng trưng là một con rùa bằng đá đang ngẩng cao đầu. Ngước mắt nhìn lên lại thấy có hai cột đá rũ xuống, dùng tay gõ vào hai cột đá liền phát ra tiếng coong... coong trong trẻo, vang dội, đó là chiếc “trống thần” của nhà Trời. Qua một ngách hang, cúi đầu nhìn xuống ngang tầm mắt là vô số những nhũ đá trắng muốt tựa như hình bầu vú người mẹ căng tròn, nhỏ những giọt nước tí tách giống như những giọt sữa ngọt ngào không bao giờ vơi cạn. Vào đến cuối động, không gian thu hẹp dần, nhưng chưa hết những điều huyền bí, mê hoặc. Qua một đoạn phải cúi thấp người sát đất để đi mới vào được bên trong điện ngọc với những phím đàn của các nàng tiên và hồ tiên với những trái đào tiên nổi lên giữa lòng hồ.
Rời động Cô Tiên, trượt sang phía chân dốc bên kia vài trăm mét nữa sẽ đến động Ngọc Hoàng. Giọng anh Thành sang sảng: Đây là hang động rộng nhất và có nhiều cảnh đẹp kỳ vĩ bên trong. Bước vào cửa động có hình ảnh của ngũ vị sơn thần, tức 5 thần hổ cai quản, biểu tượng cho sự uy nghiêm, linh thiêng nơi cửa Phật. Tiến vào bên trong, ta gặp ngay suối tiên chạy dài vào tận trong khe đá. Nhìn thấy dòng nước suối trong vắt, ngửa mặt lên đón lấy vục nước từ hai tay mà thấy mát lạnh, sảng khoái vô cùng, khiến cho tinh thần lại hào hứng để đi tiếp. Phía trên dòng suối tiên là chốn bồng lai, ở đó có các vị tiên ông đang ngồi đàm đạo, đánh cờ. Leo lên tầng cao đến dốc miếu và cồn tiên còn có các đài sen đang tỏa ra, ta bắt gặp ở đó có 3 mỏm đá nhô cao, đó là 3 ngôi mộ nhà Phật hay còn gọi là tam thánh mẫu. Ngước nhìn quanh, ta như lạc vào vườn đào tiên ông với nhiều phiến đá hình tròn có nhiều nhũ sắc. Đi vài bước nữa, nhìn về phía trước, cổng trời hiện ra, đầu tiên là hình ảnh Ngưu Lang, Chức Nữ quấn quýt bên nhau, tượng trưng cho sự bất diệt của tình yêu đôi lứa. Đến đây là chốn “thiên đình”, bên trong có tất cả 6 cung điện. Lần lượt thăm các cung điện, thấy vô số những nhũ đá trắng, vàng dưới ánh đèn soi rọi trở nên lấp lánh, đó gọi là kho bạc, kho vàng của bà chúa. Đến cung mẫu có đôi thuyền tiên lướt song song, mũi hướng ra phía biển khơi tít tắp. Đi tiếp đến cung vàng, điện ngọc, hình ảnh những viền đá uốn mình chạy dài dưới chân tựa như bản đồ nước Việt Nam hình chữ S, kế trên đó là rất đông các “vua, quan” đang quây quần cùng nhau bàn việc nước. Đến cung vua bà, ta gặp hình ảnh đầu voi của Bà Triệu trong những lần xuất quân ra trận đánh thắng quân xâm lược. Phía trong là cung điện thần rừng nơi có các vị chúa sơn lâm cai trị như: sư tử, hổ, voi, tê giác...
Rời hai động Cô Tiên và động Ngọc Hoàng, cảm giác như lạc vào cõi tiên vẫn còn đọng nguyên trong tiềm thức. Ngoài hai động trên, còn có các động khác như: động Phật Bà, động Thiên Nga, động Khe Dứa... cũng rất đẹp mà ta có thể tiếp tục khám phá. Tôi chợt nghĩ, quần thể hang động Trường Lâm có đến cả chục cái, chỉ cần tham quan hết hai động chính này cũng đủ thấy những vẻ đẹp kỳ vĩ của tạo hóa. Từ quần thể hang động này có thể thấy tiềm năng khai thác du lịch – văn hóa – lịch sử của địa phương là rất lớn. Nhưng tại sao một quần thể hang động có giá trị về văn hóa, lịch sử, du lịch, có quy mô lớn như vậy nhưng đến nay vẫn chưa được công nhận là di tích danh thắng?. Tìm hiểu nguyên nhân, thì được biết, thực tế chưa có một cơ quan chức năng nào của tỉnh về tiến hành khảo sát, nghiên cứu. Bên cạnh đó, chưa có sự đầu tư để thu hút khách tham quan, vì còn nhiều khó khăn như đi lại, ăn nghỉ cho du khách; kéo điện thắp sáng vào động, hướng dẫn, thuyết trình viên, các dịch vụ khác... vẫn chưa được hoàn thiện. Trong khi đó, bản thân người dân ở khu vực quanh động rất muốn được tỉnh công nhận đây là di tích danh thắng để có điều kiện làm dịch vụ, thu hút khách tham quan, từ đó nâng cao đời sống của người dân địa phương.
Thiết nghĩ các ngành chức năng cần tiến hành khảo sát, nghiên cứu và hoàn thiện các thủ tục để động Trường Lâm được công nhận là di tích danh thắng. Với đường sá đi lại còn quá khó khăn, phải qua nhiều đoạn dốc gồ ghề, quanh co và có hố sâu, cần đầu tư làm đường, đoạn từ đập nước đầu tiên cho đến chân động, có biển chỉ dẫn cụ thể. Bên trong động có lắp hệ thống đèn điện chiếu sáng để phục vụ du khách vào tham quan. Sau đó là phát triển các hình thức dịch vụ khác như: thu vé, có đội quản lý, hướng dẫn viên, cưỡi ngựa... Hy vọng, trong tương lai không xa, khi Khu Kinh tế Nghi Sơn đi vào hoạt động sôi động, cùng với quần thể hang động Trường Lâm được đưa vào đầu tư, khai thác tham quan về du lịch – văn hóa – lịch sử sẽ là một trong những điểm nhấn phát triển kinh tế – xã hội của huyện Tĩnh Gia, tạo thành thế liên hoàn đi Hải Hòa - Đảo Mê – Khu Kinh tế Nghi Sơn - động Trường Lâm.





Hãy về với Bến En

Hãy về với Bến En (27/04/2009-9:16)
(THO) - Vườn Quốc gia Bến En nằm trên địa bàn 2 huyện Như Thanh và Như Xuân với tổng diện tích tự nhiên 14.736,67 ha, gồm hai hệ sinh thái chính là hệ sinh thái núi đất thấp và hệ sinh thái hồ nước ngọt. Trong đó, hệ sinh thái hồ nước ngọt Bến En có diện tích gần 3.000 ha. Trên hồ có 21 hòn đảo và bán đảo đã tạo cho nơi đây một phong cảnh sơn thủy hữu tình. Tài nguyên động, thực vật trong Vườn Quốc gia Bến En cũng hết sức phong phú, đa dạng với 6 ngành, 1.389 loài thực vật, trong đó có 29 loài có trong danh lục đỏ IUCN 2006, 42 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam… Xin mời bạn trong mùa du lịch này hãy đến với Bến En để thưởng ngoạn vẻ kỳ thú, trầm mặc và hoang sơ của một vườn quốc gia có một không hai này.
Với diện tích gần 3.000 ha, 21 đảo và bán đảo, cảnh sắc hồ Bến En toát lên vẻ đẹp hoang sơ, trầm mặc.
Cảnh vật trong vùng hồ dễ đem đến cho con người những phút giây tĩnh tại.
Những con đường đẹp như tranh trên đảo thực vật.
Các loài thực vật đa dạng phong phú trên đảo.
Một bản người Thái trong vùng lòng hồ.
Những ngôi nhà nép mình bên hồ.
Lòng hồ còn là nơi mưu sinh của người dân trong vùng.
Nhà nghỉ sinh thái phục vụ du khách mỗi lần đến đảo.
Thuyền du lịch tại hồ Bến En.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, tiềm năng đa dạng sinh học rất lớn và không thiếu những nét văn hóa truyền thống, nhưng hạ tầng và dịch vụ du lịch nơi đây còn rất khiêm tốn. Bến En đang rất cần một chiến lược tổng thể để phát triển du lịch sinh thái.

Hoàng Tuấn

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2008

Suối cá thần


Đứng bên này sông Mã trên đường vào suối cá thần, khách được chiêm ngưỡng toàn cảnh thiên nhiên, làng bản nơi đây.
Suối cá thần nằm tại địa bàn bản Ngọc (làng Ngọc), xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá. Suối cá đã có hàng ngàn năm nay bên dưới chân núi Trường Sinh. Qua chiếc cầu treo như hình con thoi uốn lượn, bên dưới là dòng nước trong vắt.

Từ trên cầu, du khách có thể được chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, những dãy núi đá cao vút nằm bên bờ sông với nhiều hình dáng đầy sức tưởng tượng của tự nhiên ban tặng, mỗi dãy núi có độ cao, hình hài khác nhau, với danh tính rất mực gần gũi, như núi Thằn Lằn, núi Con Cò… thật lạ kỳ. Qua sông, khoảng 4km nơi đó chính là suối cá thần.

Cụ Trương, nay đã 83 tuổi, người gốc bản xứ kể: “Đàn cá được sinh ra trong những hang động bí ẩn, cá thần ở đây là vật linh thiêng, do vậy không ai được bắt hoặc ăn thịt cá”. Nhưng cái kỳ lạ ở đây làm cho mọi người phải tò mò, chú ý, đó là chỉ với một dòng nước từ hốc đá ngầm chảy từ chân núi có tới hàng ngàn, hàng vạn chú cá nối đuôi bơi ra, bơi vào.


Hơn nữa những chú cá thần không giống với cá bình thường, hình cá chép, môi đỏ rực, có khuyên tai to lộ rõ, thân cá màu đỏ hồng. Nếu như đến vào mùa nước cạn (thường vào mùa đông mặt nước chỉ chừng 20 – 40cm, cá lộ rõ phần bụng và phần trên của cá. Mỗi khi bơi, cá phát sáng nhiều màu lấp lánh ánh bạc trông thật vui mắt.

Bên cạnh là dãy núi còn được giữ khá nguyên vẹn của hệ thống rừng nguyên sinh với các động thực vật đặc trưng của vùng nhiệt đới. Còn đối với người dân thì vẫn còn lưu giữ những nét văn hoá truyền thống như: dệt thổ cẩm, uống rượu cần, múa Pồn Pông... là nét văn hoá sinh hoạt đặc sắc của đồng bào Mường.

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2008

Đôi nét về xứ Thanh

Thanh Hóa là một tỉnh đông dân nhất Việt Nam nằm ở vùng Bắc Trung Bộ.
Địa lý
Vị trí địa lý
Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm 1831 (năm Minh Mệnh 10) thì tỉnh Thanh Hóa thuộc về sao Dực, sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, múc cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía tây 1 độ 40 phân.
Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hoá nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa BìnhNinh Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn nước Lào với đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hoá mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km.
Diện tích
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.106 km², đứng thứ 6 trong cả nước, chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².
Địa hình
Nghiêng từ tây bắc xuống đông nam: phía tây bắc, những đồi núi cao trên 1.000 m đến 1.500 m thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía đông nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh; tạo tiềm năng lớn về kinh tế lâm nghiệp, dồi dào lâm sản, tài nguyên phong phú.
Vùng miền núi, trung du
Miền núi và đồi trung du chiếm phần lớn diện tích của Thanh Hoá. Riêng miền đồi trung du chiếm một diện tích hẹp và bị xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở Bắc Bộ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu đã không tách miền đồi trung du của Thanh Hoá thành một bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là một phần không tách rời của miền núi nói chung.
Miền đồi núi Thanh Hoá được chia làm 3 bộ phận khác nhau: bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc Lạc, Cẩm Thuỷ và Thạch Thành chiếm 2/3 diện tích của tỉnh. Vùng đồi núi phía tây có khí hậu mát, lượng mưa lớn nên có nguồn lâm sản dồi dào, lại có tiềm năng thuỷ điện lớn, trong đó sông Chu và các phụ lưu có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng các nhà máy thuỷ điện. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp, đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây đặc sản và có Vườn quốc gia Bến En (thuộc huyện Như Thanh), có rừng phát triển tốt, với nhiều gỗ quý, thú quý.
Vùng đồng bằng


Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền bắc và thứ ba của cả nước. Đồng bằng Thanh Hoá có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Điểm đồng bằng thấp nhất so với mực nước biển là 1 m.
Vùng ven biển
Từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Sầm Sơn, Quảng Xương, Nông Cống đến Tĩnh Gia, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yênsông Bạng. Bờ biển dài, tương đối bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn, có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thuỷ sản, phân bố các khu dịch vụ, khu công nghiệp, phát triển kinh tế biển (ở Nga Sơn, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn).
Khí tượng, thuỷ văn
Nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ, hàng năm có 3 mùa gió:
Gió Bắc (còn gọi là gió bấc): Không khí lạnh từ [áp cao Serbia]] về, qua Trung Quốc thổi vào
Gió Tây Nam: Từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào thổi vào, gió rất nóng nên gọi là gió Lào hay gió Tây Nam
Gió Đông Nam (còn gọi là gió nồm): thổi từ biển vào đem theo khí mát mẻ
Mùa nóng: Bắt đầu từ cuối mùa xuân đến giữa mùa thu, mùa này nắng, mưa nhiều thường hay có lụt, bão, hạn hán, gặp những ngày có gió Lào nhiệt độ lên tới 39-40°C
Mùa lạnh: Bắt đầu từ giữa mùa thu đến hết mùa xuân năm sau. Mùa này thường hay xuất hiện gió mùa đông bắc, lại mưa ít; đầu mùa thường hanh khô. Lượng nước trung bình hàng năm khoảng 1730-1980 mm, mưa nhiều tập trung vào thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch, còn từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau lượng mưa chỉ dưới 15%.
Nhiệt độ không khí: Tổng tích ôn trung bình hàng năm khoảng 86000C, nhiệt độ trung bình từ 23,3°C đến 23,6°C, mùa hè nhiệt độ có ngày cao tuyệt đối đến 40°C, nhưng mùa đông có ngày nhiệt độ xuống thấp tới 5-6°C.
Độ ẩm không khí: trung bình 80-85%
Nắng: hàng năm có khoảng 1700 giờ nắng, tháng nắng nhất là tháng 7, tháng có ít nắng là tháng 2 và tháng 3.
Gió: Thành phố Thanh Hoá chỉ cách bờ biển Sầm Sơn 10 km đường chim bay, vì thế nó nằm vào tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, chính nhờ có gió biển mà những ngày có gió Lào, thời gian không khí bị hun nóng chỉ xảy ra từ 10 giờ sáng đến 12 giờ đêm là cùng.
Bão: Theo chu kỳ từ 3-5 năm lại xuất hiện một lần từ cấp 9 đến cấp 10, cá biệt có năm cấp 11 đến cấp 12.
Thuỷ văn: Hàng năm sông Mã đổ ra biển một khối lượng nước khá lớn khoảng 17 tỷ , ngoài ra vùng biển rộng còn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều, đẩy nước mặn vào, khối nước vùng cửa sông và đồng ruộng ven biển bị nhiễm mặn.
Tài nguyên
Tỉnh Thanh Hóa đa dạng nguồn tài nguyên nhưng nhìn chung nguồn tài nguyên có trữ lượng không lớn, và thường phân bố không tập trung nên rất khó cho việc phát triển công nghiệp khai khoáng, trong tỉnh hiện tại mới chỉ có một số nhà máy đang tiến hành khai thác nguồn tài nguyên, như: nhà máy xi măng Bỉm sơn, xi măng Nghi sơn, phân bón Hàm rồng,... Đa số nguồn tài nguyên đang bị thất thoát do kiểm soát không chặt chẽ. Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường Thanh Hóa đưa ra năm 2004 thì nguồn tài nguyên của tỉnh như sau:
Đá vôi làm xi măng: trữ lượng 370 triệu tấn, chất lượng tốt, phân bố ở các huyện: Quan Hóa, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Bỉm Sơn, Hà Trung.
Sét làm xi măng: Trữ lượng 85 triệu tấn, phân bố chủ yếu ở các huyện: Hà Trung, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Tĩnh Gia.
Sét làm gạch ngói: Trữ lượng trên 20 triệu khối, chất lượng tốt, phân bố chủ yếu ở các huyện: Thạch Thành, Hà Trung, Thiệu Hóa, Yên Định, Thọ Xuân, Quảng Xương, Tĩnh Gia.
Sét cao nhôm: Trữ lượng 5 triệu tấn, làm gạch chịu lửa và gạch ốp lát.
Cát xây dựng: Trữ lượng rất lớn, phân bố khắp tỉnh.
Đá ốp lát: Trữ lượng 2-3 tỉ khối, chất lượng tốt có nhiều màu sắc đẹp, độ bền cao.
Đá bọt: Làm phụ gia xi măng
Quặng sắt: Có 5 mỏ đã được thăm dò, trữ lượng 3 triệu tấn.
Quặng crom: Trữ lượng 21.898 triệu tấn (đặc biệt cả nước chỉ có ở Triệu Sơn và Ngọc Lặc của Thanh Hóa).
Vàng sa khoáng: Tập trung ở Cẩm Thủy, Bá Thước, Thường Xuân.
Vàng gốc: Tập trung chủ yếu ở làng Nèo huyện Bá Thước
Đá quý, bán quý: Tập trung ở tây nam tỉnh, chưa có điều kiện kiểm chứng, khảo sát.
Phốt pho rit: Trữ lượng 1 triệu tấn, chất lượng trung bình.
Secpentin: Trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tốt.
Đô lô mit: Trữ lượng 4,7 triệu tấn, chất lượng rất tốt.
Than đá: Trữ lượng không đáng kể
Than bùn: Trữ lượng 2 triệu tấn, là nguyên liệu chính để làm phân bón vi sinh.
Nước mặt: Với các sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông Hoạt, sông Bưởi, sông Bạng, sông Yên,... Tổng chiều dài là 881 km, với tổng diện tích lưu vực là 39.756 km². Tổng lượng nước ngọt trung bình hằng năm là 19,52 tỷ m³.
Muối biển: Nước biển Thanh Hóa có độ mặn cao 2,5-2,8% vào các tháng từ 11 đến tháng 6 năm sau, cao nhất là vào tháng giêng 3,2-3,3%.
Các đơn vị hành chính
Thanh Hoá có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện:
Thành phố Thanh Hóa
Thị xã Bỉm Sơn
Thị xã Sầm Sơn
Huyện Bá Thước
Huyện Cẩm Thủy
Huyện Đông Sơn
Huyện Hà Trung
Huyện Hậu Lộc
Huyện Hoằng Hóa
Huyện Lang Chánh
Huyện Mường Lát
Huyện Nga Sơn
Huyện Ngọc Lặc
Huyện Như Thanh
Huyện Như Xuân
Huyện Nông Cống
Huyện Quan Hóa
Huyện Quan Sơn
Huyện Quảng Xương
Huyện Thạch Thành
Huyện Thiệu Hóa
Huyện Thọ Xuân
Huyện Thường Xuân
Huyện Tĩnh Gia
Huyện Triệu Sơn
Huyện Vĩnh Lộc
Huyện Yên Định
Dân cư
Theo thống kê năm 2005 Thanh Hóa có 3,62 triệu người, đứng thứ hai cả nước. Mật độ dân số vào loại trung bình: 317 người/km². Có 7 dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú.
Lịch sử
Thanh Hóa xưa là bộ Cửu Chân của nước Văn Lang.
Nhà Hán: Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân.
Thời thuộc Tam quốc, nhà Đông Ngô tách quận Cửu Chân thành hai quận: Cửu ChânCửu Đức. Quận Cửu Chân gồm đất Thanh Hóa ngày nay và một phần phía nam Ninh Bình. Cửu Chân được chia làm 7 huyện: Tư Phố, Di Phong, Cư Phong, Trạn Ngô, Kiến Sơ, Phù Lạc, Thường Lạc, Tùng Nguyên.
Thời nhà Lương: Lương Võ đế đổi Cửu Chân làm Ái Châu.
Nhà Tùy gọi là Cửu Chân quận.
Thời Đinh, Tiền Lê, Lý
Nhà ĐinhTiền Lê gọi là đạo Ái Châu
Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu, về sau vào năm Thuận Thiên 1 thì gọi là phủ Thanh Hóa (Thanh: trong sáng; Hóa: biến hóa).
Thời Trần, Hồ
Năm 1397, Trần Thuận Tông đổi làm trấn Thanh Đô, gồm 3 châu và 7 huyện: châu Thanh Hóa (gồm Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang); châu Ái (gồm: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga);châu Cửu Chân (gồm: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông Cống); huyện Cổ Đằng; huyện Cổ Hoằng; huyện Đông Sơn; huyện Vĩnh Ninh; huyện Yên Định; huyện Lương Giang; huyện Cổ Lôi.
Thuộc Minh
Nhà Minh đổi lại làm phủ Thanh Hóa như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi Dưng, Thụy Nguyên. Về địa giới vẫn không đổi.
Thời Lê, Nguyễn
Nhà Lê, Thanh Hóa là thừa tuyên Thanh Hóa, gồm phần đất tỉnh Thanh Hóa ngày nay và tỉnh Ninh Bình (thời kỳ đó là phủ Trường Yên, trực thuộc) và tỉnh Sầm Nưa của Lào (thời kỳ đó gọi là châu Sầm).
Năm 1802 (năm Gia Long 1), gọi là trấn Thanh Hóa.
Năm 1831 (năm Minh Mệnh 12), đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa).
Năm 1841 (năm Thiệu Trị 1), lại đổi thành tỉnh Thanh Hóa.
Tên Thanh Hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay.
Di tích lịch sử và Danh thắng


Suối cá tại chân núi Trường Sinh thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện miền núi Cẩm Thuỷ cách trung tâm TP Thanh Hoá gần 100 km về phía Tây Bắc
Bãi biển Sầm Sơn.
Thanh Hóa có cầu Hàm Rồng là một di tích lịch sử thời Chiến tranh Việt Nam.
Khu di tích lịch sử Lam Kinh: Thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 50 km về phía Tây. Hiện còn lưu giữ các điêu khắc đá như bia Vĩnh Lăng (Lê Lợi), bia hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao, các di tích cung điện thành nội, thành ngoại, sân Rồng... Ngoài ra ở Thọ Xuân còn có đền vua Lê Đại Hành.
Vườn quốc gia Bến En: Thuộc huyện Như Thanh cách thành phố Thanh Hoá 36 km về phía Tây Nam, rộng 16,634 ha với những cây lim ngàn tuổi, lát hoa, chò chỉ, ngù hương, săng lẻ... và nhiều loài thú như voi, gấu, hổ, khỉ...
Suối cá "thần" Cẩm Lương: Thuộc làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ, cách thành phố Thanh Hoá 80 km về phía Tây, là suối cá tự nhiên, có tới hàng ngàn con cá. Mỗi con cá nặng từ 2 đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg.
Cụm di tích Nga Sơn: Động Từ Thức, Cửa biển Thần Phù, Chiến khu Ba Đình, đền thờ Mai An Tiêm...
Thành Tây Đô: thuộc địa phận 2 xã: Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hoá khoảng 50 km.
Văn hoá Đông Sơn
Thái miếu Hậu Lê: thuộc phường Đông Vệ, có nhiều hiện vật có từ thế kỷ 17, 18; Đặc biệt còn có 27 thần vị và nhiều hiện vật
Đền thờ Lê Thành: thuộc xã Đông Cương, thờ một vị tướng có công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Đền Chu Nguyên Lương: thuộc phường Nam Ngạn, thờ một vị tướng trong thời kỳ kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thời nhà Trần.
Phường Lam Sơn có đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ Tống Duy Tân...
Phường Nam Ngạn và phường Trường Thi có toà Giám mục và chùa Thanh Hà, chùa Chanh và chùa Mật Đa.
Vườn quốc gia Cúc Phương thuộc khu vực giao nhau với tỉnh Ninh Bình, tỉnh Hòa Bình cách thành phố Thanh Hoá khoảng 70 km về phía Tây Bắc.
Kinh tế
Công nghiệp
Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thị xã Bỉm Sơn
Khu công nghiệp Nghi Sơn (nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn) - Huyện Tĩnh gia
Khu công nghiệp Lễ Môn - Thành phố Thanh Hóa
Khu công nghiệp Đình Hương (Tây Bắc Ga) - Thành phố Thanh Hóa
Khu công nghiệp Lam Sơn - Huyện Thọ Xuân
Nông nghiệp
Toàn tỉnh hiện có 239.843 ha đất nông nghiệp đang được sử dụng khai thác.
Năm 2002, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 1,408 triệu tấn
Năm 2003, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,5 triệu tấn: nguyên liệu mía đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400 ha; lạc 16.000 ha; dứa 1.500 ha; sắn 7.000 ha; cói 5.000 ha...
Lâm nghiệp
Thanh Hóa là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng 436.360 ha, trữ lượng khoảng 15,84 triệu m³ gỗ, hàng năm có thể khai thác 35.000-40.000 m³. Rừng Thanh Hóa chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú, đa dạng về họ, loài. Gỗ quí hiếm có lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, giổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre, ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ... các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Nhìn chung vùng rừng giàu và trung bình chủ yếu là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, phân bố trên các dãy núi cao ở biên giới Việt - Lào. Thanh Hóa là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha.
Rừng Thanh Hóa cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: voi, hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim... Đặc biệt ở vùng Tây nam của tỉnh có Vườn quốc gia Bến En, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien, động vật, thực vật quý, đồng thời là một điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.
Ngư nghiệp
Dịch vụ
Ngân hàng
Bên cạnh Ngân hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách. Hiện nay, các ngân hàng đang thực hiện đổi mới và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế bảo đảm an toàn và hiệu quả. Tổng nguồn vốn huy động tín dụng hàng năm đạt trên 3.000 tỷ đồng, tổng dư nợ năm 2002 đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2001.
Bảo hiểm
Là tỉnh có dân số đông thứ hai cả nước, Thanh Hóa được xác định là thị trường tiềm năng ở tất cả các loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có tám công ty bảo hiểm được cấp phép hoạt động bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm trên địa bàn đang không ngừng mở rộng thị trường, tạo sự cạnh tranh lành mạnh nhằm mục đích nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Thương mại dịch vụ
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương mại Thanh Hóa đã có bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ thống bán buôn, bán lẻ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện lưu thông thuận tiện hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt trên 30 triệu USD, năm 2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002 đạt 58 triệu USD. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bên cạnh thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, một số doanh nghiệp đã xuất khẩu sang Mỹ, Châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là: nông sản (lạc, vừng, dưa chuột, hạt kê, ớt, hạt tiêu, cà phê...), hải sản (tôm, cua, mực khô, rau câu), hàng da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ (các sản phẩm mây tre, sơn mài, chiếu cói...), đá ốp lát, quặng crôm...
Du lịch
Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng về du lịch. Hiện nay, ngành du lịch Thanh Hóa có hàng ngàn phòng nghỉ đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Năm 2007 du lịch Thanh Hóa năm đón tiếp gần 1.7 triệu lượt khách, chủ yếu là khách trong nước đến tham quan nghỉ mát tại đô thị du lịch biển Sầm Sơn.
Hiện tại, Tỉnh Thanh Hóa xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Tỉnh đã thực hiện quy hoạch hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch. Năm 2007, sở Du lịch Thanh Hóa tiếp tục phối hợp với Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An, Huế trong chương trình "Hành trình một nghìn năm các kinh đô Việt Nam". Phối hợp cùng Nghệ AnNinh Bình lập định hướng quy hoạch vùng du lịch trọng điểm Bắc Trung Bộ.